Nói về văn hoá ẩm thực Tây Bắc thì người đồng bào dân tộc Thái góp 1 phần không nhỏ vào kho tàng phong phú, đồ sộ của ẩm thực Việt. Rất nhiều đặc sản được núi rừng Tây Bắc ban tặng và qua bàn tay của người Thái trở lên ngon hơn, đặc sắc hơn. Cùng Quà Miền Bắc tìm hiểu xem bữa cơm đãi khách quý của người Thái ở Sơn La có gì nào?
Đối với dân tộc Thái, việc làm món ăn trong dịp lễ, Tết hay tiếp khách có vai trò rất đặc biệt. Họ chế biến món ăn một cách cầu kỳ theo nhiều phương thức, sử dụng những loại nguyên liệu riêng, các loại gia vị độc đáo mang đặc trưng phong tục tập quán của dân tộc mình để tỏ lòng thành kính. Trong mâm cơm đón khách, người trưởng họ và người cao tuổi được nhất mực coi trọng. Đó là sự thể hiện tấm lòng hiếu khách và thảo hiền của con cái đối với cha mẹ và khách. Tham gia chuẩn bị các món ăn trong ngày lễ, Tết là niềm vui và quyền lợi của mỗi thành viên trong cộng đồng. Món ăn trong những ngày vui này mang ý nghĩa tinh thần rất lớn. Đó không chỉ là hưởng thụ thành quả lao động do mình làm ra mà nó còn là sợi dây gắn kết tình cảm cộng đồng, làng xóm, là sự tiếp nối truyền thống văn hóa ẩm thực của tổ tiên để lại.
- Thịt trâu gác bếp
Nói đến người Thái ở Sơn La nói riêng và Tây Bắc nói chung thì thịt trâu gác bếp là món ăn mang đậm đặc trưng, mà chỉ có người Thái làm mới ngon, tròn vị. Giống như phở Nam Định, bánh đa cua Hải Phòng, cốm làng Vòng…
Thịt trâu gác bếp đúng chuẩn gia truyền thì thịt là phải chọn thịt tươi từ những con trâu trưởng thành đi rừng, lọc đoạn thịt thăn, bắp, đùi cắt to như bắp tay. Ướp với các loại gia vị núi rừng Tây Bắc như hạt dổi, hạt mắc khén, tỏi, ớt, muối, bột ngọt…sau đó vùi vào than củi chừng nửa tiếng, rồi mới gác bếp. Khi cắt miếng thịt ra vẫn còn màu đỏ, đó mới là gác bếp nguyên bản.
2. Chẩm chéo
Chẩm chéo hay chẳm chéo là gia vị cổ truyền của dân tộc Thái vùng Tây Bắc. Chẩm chéo dùng chấm xôi, các món luộc, đồ nướng và các món rau sống. Nguyên liệu chính của món chấm này bao gồm: muối, hạt dổi, tỏi,mắc khén, húng lủi, rau thơm,ớt nướng ,Sả.
3. Xôi ngũ sắc
Nếp được chọn để nấu xôi là nếp nương, được người thái gieo trồng trên núi đá, ăn rất déo, thơm ngon. Màu được lựa chọn cũng là các loại cây trái rừng như trám, xôi được nấu trong các dịp cũng giỗ, lễ tết, đãi khách quý. Xôi này ăn với thịt ba rọi gác bếp siêu siêu ngon, vì có chút mỡ ăn rất ngậy thơm.
4. Lòng cá nấu canh đắng
Lá cây đắng mọc ven bờ suối, có vị hơi nhặng nhặng. Người Thái hái lá này về nấu với lòng cá, lòng cá có chút mỡ kết hợp với vị hơi đăng đắng của cây lá đắng khiến nó trở nên thú vị hơn. Món lòng cá nấu canh đắng này thường ăn khai vị, nhất là những người uống rượu húp chút nước rất tuyệt.
5. Canh măng muối chua nấu cá
Mùa măng bắt đầu từ tháng 6, khi mùa mưa tới, người Thái đi rừng bẻ măng. Măng có thể làm được nhiều món, măng khô, măng muối ớt, măng ngâm. Có món đặc biệt là cá nấu nước măng chua. Họ lấy nước măng nấu với cá, có vị chua chua, mặn mặn thú vị. Canh này ăn với các loại rau sống ngon hết xảy.
Ngoài ra còn nhiều loại gia vị như hạt dổi, hạt mắc khén, tương ớt…ăn kèm hoặc chế biến theo các thức ăn rất ngon, hợp.
Đối với đồng bào dân tộc Thái ở Tây Bắc nói chung và ở Sơn La nói riêng, sống trên vùng đất trù phú, được thiên nhiên ưu đãi ban tặng những sản vật tự nhiên, vì vậy từ xưa người dân đã tích lũy, xây dựng được cho mình một nền văn hóa ẩm thực đa dạng, phong phú và vô cùng hấp dẫn. Những nét đẹp bình dị ấy thực sự là dấu ấn sinh động hòa vào bức tranh văn hóa ẩm thực của dân tộc Việt Nam.